Nhạc sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số Dương Hồng Từ là hội viên Hội Liên hiệp VHNT Nghệ An, đã xuất bản 4 công trình: Âm nhạc dân gian dân tộc Thái ở Nghệ, Văn hóa dân gian người Mông ở Nghệ An, Âm nhạc dân gian dân tộc Thổ ở Nghệ An, Văn hóa cổ truyền dân tộc Thổ ở Nghệ An. Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về VHNT năm 2022.
Đặc biệt, ông vinh dự là một trong những điển hình tiên tiến tham dự Đại hội Thi đua yêu nước tỉnh Nghệ An năm 2025; và là 1 trong 36 đại biểu của tỉnh Nghệ An tham dự Đại hội Thi đua toàn quốc năm 2025.

Năm 2022, tôi đến nhà ông để tìm hiểu mấy công trình ông nghiên cứu về văn hóa dân gian và âm nhạc của đồng bào dân tộc Thái, Thổ, Mông miền Tây Nghệ An đã được xuất bản, ông cứ trở trăn: “bác còn một mong ước là hoàn thành cuốn mo Hoa tiêng tiếng. Nó hay lắm cháu ạ!”
Bây giờ thì ông đã được toại nguyện, thỏa lòng yêu và tận hiến cho niềm đam mê ấy.
Chắc chắn có mo “Hoa tiêng tiếng” của đồng bào dân tộc Thổ ở Nghệ An
Khoảng năm 1962, ông là chiến sĩ công an biên phòng thuộc đơn vị Đồn Công an vũ trang Tri Lễ (huyện Quế Phong cũ). Đêm ấy, hai anh trong phòng tranh luận rất gay gắt về một vấn đề gì đó, thì người thứ ba ở ngoài vào, vừa chuẩn bị chăn màn để ngủ, vừa chen lời: “Thôi đi các ông ơi/ Các ông quên rồi à/ Ta từ trứng sinh ra/ Cùng chung mẹ chung cha/ Đừng giận hờn sinh sự/ Đừng làm thế mà đau”. Ông chợt như sững lại, ô câu hát có vần có điệu, hay thế. Sáng sớm, nhân lúcc ăn sáng tại phòng ăn tập thể, ông vỗ vai đồng nghiệp hỏi chuyện: “Lúc tối ông đọc bài chi mà hay rứa? – “Hoa tiêng tiếng đó. Mẹ mình hay kể/đọc, với lại mình đi xem đám ma nghe ông mo đọc trong những đêm nằm ấm”. Tục nằm ấm trong đám tang của đồng bào Thổ ở Nghệ An khá đặc biệt. Khi gia chủ có tang, trước lúc đem đi chôn, bà con vơi phai nỗi buồn. Thầy mo sẽ ngồi ở đầu linh cữu kể/đọc cho bà con xung quanh nghe về nguồn cơn sinh ra con người, sinh ra muôn loài v,v,… trong những đêm nằm ấm ấy.
Câu chuyện tưởng chấm hết tại đó, vì bao công việc, bao mưu sinh vất vả dồn lấp. Sau 10 năm công tác ở vùng biên ông chuyển ngành về Vinh làm anh công chức trong ngành văn hóa. Thời gian này, ông còn phải dành quá nhiều thời gian cho những công trình sưu tầm, nghiên cứu về văn hóa dân tộc Thái, âm nhạc dân tộc Mông, v.v… mà ông đã trót lỡ đa mang.

Thế nhưng, nhiều lúc ông vẫn như vẳng nghe những câu hát kỳ lạ ấy của người bạn. Lại váng vất những điều trăn trở, hẳn phải có cái gì hay ho, có giá trị nên một số người mới nhớ như vậy. Trong quá trình sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân tộc Thái, rồi dân tộc Thổ ông tìm đọc rất nhiều cuốn sách nói về văn hóa của đồng bào Thổ. Suốt thời gian về công tác tại ngành văn hóa tỉnh nhà, đi công tác tại các bản làng có người Thổ ông đều đưa câu cửa miệng: “làng ta có ai làm mo không?” để hỏi, nếu không có thầy mo, thì hỏi rộng hơn: “Làng ta có ai hoạt động văn nghệ lâu năm không?” với hy vọng sẽ tìm được người nắm giữ những bí mật về Hoa tiêng tiếng. Tuy nhiên, ông đã phải thất vọng rất nhiều, khi nhận về câu trả lời là: không.
Ông vẫn không nguôi hy vọng, khi tìm đọc trong nhiều cuốn sách có nói về việc bà con dân tộc Thổ Nghệ An rất thích nghe kể “đắng”. Nhớ lời bạn năm xưa, ông đến Kim Sơn (Quế Phong cũ) gặp mẹ của bạn để tìm ngọn nguồn bài mo. Nhưng bà cũng chỉ nhớ được một số câu nhờ thời chưa lấy chồng, bà được nghe bố (là một thầy mo ở Quỳ Hợp kể/đọc, nhưng ông đã mất). Bà bảo “Truyện hay lắm – khi nghe mo, bà con không ai nói chuyện”. Ông vững tin rằng, “Truyện Hoa tiêng tiếng mà ông đang tìm cũng là mo, là “đắng” mà một số sách nói tới”. Tia hy vọng hé mở, khi ông đoán định, hẳn là vùng Quỳ Hợp sẽ có nhiều người biết mo “Hoa tiếng tiếng”. Một người bạn của ông, người dân tộc Thổ, tốt nghiệp Đại học Sư phạm I Hà Nội, dạy môn văn ở một trường cấp ba miền núi, thầy giáo Đinh Xuân Uy cũng kể, bố ông trước đây đã từng mo “Hoa tiêng tiếng”. Thế là Dương Hồng Từ khẳng định, có “Hoa tiêng tiếng”, rồi tự đặt nhiệm vụ: phải tìm được “hoa” này. Không thể để một di sản văn hóa quý như vậy mất đi chỉ vì không ai tìm nó!
Ông đã quyết tâm và thực sự công phu, tâm huyết trên hành trình gian nan đó.
4 lần chỉnh sửa, bổ sung mới hoàn thiện bản thảo
May mắn trong lần kể chuyện cho thầy giáo Đinh Xuân Uy, ông được chỉ dẫn: nên lên vùng Giai Xuân (Tân Kỳ cũ), Nghĩa Lạc (huyện Nghĩa Đàn cũ), Hạ Sơn, Văn Lợi và Tam Hợp (huyện Quỳ Hợp cũ), v.v… đang có người biết mo này. Hai cái tên được bạn gợi ý, nhưng đến nơi hai người này lại đã mất. Nhiều năm sau ông đến Làng Đò xã Thọ Hợp (Quỳ Hợp cũ), gặp được ông Trương Xuân Liên là một nghệ nhân cao tuổi cung cấp tới gần 200 câu. Ông mừng khôn xiết, tưởng như bắt được vàng, vì chắc chắn Hoa tiêng tiếng đã có hình hài.
Cuộc hành trình vẫn tiếp tục. Tìm gặp thêm ông Trương Văn Liêu – một cán bộ huyện về hưu ở làng Sợi trên (Thọ Hợp, Quỳ Hợp) cung cấp thêm được một số câu, ông Trương Văn Duy (thầy mo ở làng Sợi dưới) bổ sung cho khá nhiều câu hát nữa. Chắp vá các đoạn từ nhiều người, ông thấy câu chuyện dường như đã có đầu có cuối, rằng ông mo kể cho dân làng biết nguồn cơn của con người: từ lúc khai thiên lập địa, sinh ra muôn loài, sinh ra con người,rồi con người lớn lên dựng vợ gả chồng đến lúc già, chết…. Tuy nhiên, câu chuyện được thầy mo kể/ đọc trong 2,3 đêm nằm ấm trước lúc tiễn biệt một người chết “sắp đi ra ngoài rừng/ Ăn riêng ở lẻ” (lời Hoa tiêng tiếng), nên mỗi người chỉ thuộc được đôi đoạn của các phần khác nhau dẫn đến rất khó khăn trong việc chắp nối, lắp ghép thành truyện. Chưa thực sự an tâm, ông trở lại gặp thầy Đinh Xuân Uy và Đại tá Đậu Kỷ Luật, một người yêu và khá am hiểu văn hóa các dân tộc thiểu số để cùng hỗ trợ việc chắp nối các mẩu, các đoạn sao cho hợp lý. Hai tác giả nêu ý kiến chỗ này, chỗ kia chưa ổn, ông lại lần mò gặp lại các nghệ nhân để hỏi kỹ thêm, để nghe lại cho chuẩn xác, bởi quá trình ghi âm gặp khá nhiều trục trặc. Ngày đó, các thiết bị thu âm khá thô sơ, bản thân ông cũng không có điều kiện để mua sắm thiết bị tốt hơn nên càng thêm phần vất vả.
Những lấp lánh từ câu chuyện “Hoa tiêng tiếng” vẫn luôn là sức hút vô hình giúp ông vượt qua tất cả và dường như khiến ông không dứt ra được. Cứ sau mỗi lần chỉnh sửa, bổ sung ông lại có thêm một bản thảo mới chỉn chu hơn, an lòng hơn. Đến lúc này đây đã là bản thảo số 4. Ông thở dài, vừa như hài lòng, vừa như tiếc nuối: “Bây giờ, dù có muốn chỉnh sửa, bổ sung cũng không được nữa rồi. Các thầy mo, già làng, nghệ nhân và hai người bạn tâm đắc Đinh Xuân Uy, Đậu Kỷ Luật biết về bài mo này đều đã rời xa trần thế”.
Làm sống lại cho dân tộc Thổ ở Nghệ An một mo sử thi quý
Tác giả Đậu Kỷ Luật đã không nén được niềm vui với bạn mình, từng thốt lên: “Câu chuyện tưởng là phổ biến ở tất cả mọi nơi, mọi dân tộc, thế mà bây giờ mới xuất hiện, lại xuất hiện ở Nghệ An, lại là của dân tộc Thổ – dân tộc mà sách vở, các tác phẩm văn học nghệ thuật, văn hóa dân gian còn đang khiêm tốn. Tôi vui mừng, xúc động vì: thế là đã có, đang còn một tài sản quý giá đáng trân trọng, nó chưa bị chôn vùi cùng với người già, với các ông mo”. Ông như reo lên: “Tôi thật không ngờ dân tộc Thổ ở Nghệ An có một mo sử thi (tôi tạm gọi như vậy) đến bây giờ mới xuất hiện. Tôi đọc nhiều sách, tư liệu về các dân tộc thiểu số, chưa thấy một tài liệu, một tác giả nào nói tới dù chỉ là một cái tên “Hoa tiêng tiếng”.

Mo “Hoa tiêng tiếng” mà Dương Hồng Từ đã dày công tìm kiếm, tu chỉnh có 3.070 câu văn vần với 4 phần: phần 1: Chuyện sinh đẻ; phần hai: Chuyện tìm vợ; phần ba: Chuyện nguồn gốc họ hàng; phần 4: Chuyện Vua Xích Đế. Xâu nối các phần là câu chuyện kể từ lúc khai thiên lập địa, sinh ra muôn loài, sinh ra con người, rồi con người lớn lên dựng vợ gả chồng đến lúc già, chết… Bài mo phản ánh sâu sắc nhân sinh quan, thế giới quan của đồng bào Thổ ở Nghệ An. Lời văn ngắn gọn, giản dị, mộc mạc như lời ăn tiếng nói của bà con mà không kém phần dí dỏm và sử dụng phong phú các hình ảnh gần gũi với đời sống của đồng bào. Nhiều phong tục, tập quán của người Thổ nơi đây được phản ánh rất rõ trong lời mo. Ngày hôm nay, qua câu chuyện tình yêu trong Hoa tiêng tiếng chúng ta có thể hiểu được vì sao người Thổ lại đội khăn trắng. Rồi những lời răn dạy về sự ứng xử với các đồ vật, con vật đang phục vụ cho cuộc sống của đồng bào. Ấy là tục được mùa cho trâu ăn bánh, đưa người chết ra tạm biệt bến nước như lời tri ân trước lúc đi xa, v.v… Những phong tục, ứng xử văn hóa này vô cùng quý giá và có ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống hôm nay. Một hành vi đẹp của Vua Xích Đế: trước lúc chết, ông đi thăm bến nước, chào vĩnh biệt con suối mà như chào một người thân thiết ruột thịt, và dặn dò “Xin giữ gìn/ Suối đẹp nước trong” hẳn là lời đánh thức về sự gìn giữ môi trường sinh thái đối với chúng ta hôm nay. Một câu văn ngắn gọn mà người chiến sĩ giảng hòa hai người bạn cãi nhau nói trên đã nhắc nhở về nguồn cội, về tình thân. Một vài câu nhắn nhủ “Khi cơm có ló nhiều/ đừng quên/ củ khoai trái chuối” mộc mạc khiến người nghe phải ngẫm ngợi về lòng biết ơn… Tất cả những cái đẹp đẽ như vậy đã được lưu giữ trong Hoa tiêng tiếng.

Cây hoa tiêng tiếng là cây gì, hình thù như thế nào, không ai rõ, nhưng tác giả Dương Hồng Từ khẳng định “Nó chỉ như là “nhân chứng” chứng kiến việc sinh ra loài người, sinh ra các dân tộc nhằm khuyên răn các dân tộc đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ, bảo vệ lẫn nhau vì “ta từ trứng nở ra, có cây hoa tiêng tiếng”.
Có thể nói với Hoa tiêng tiếng, tác giả Dương Hồng Từ sưu tầm được đã đóng góp quý báu vào kho tàng mo tang lễ của đồng bào dân tộc Thổ Việt Nam. Qua đó, chúng ta hiểu sâu sắc hơn về văn hóa, lịch sử, các tập quán, phong tục tốt đẹp của dân tộc Thổ (Mọn) mà ở đó có nhiều giá trị cần được bảo tồn góp phần tô đẹp thêm nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Đào Thúy Hoa















