Tôi thường có những phút bùi ngùi mỗi khi đi qua những con đường làng mà hai bên tường rào xi măng kiên cố nối dài không còn chút dấu tích của mấy bụi tre và dãy cúc tần, râm bụt… Có lẽ bởi tấm lòng quê xưa quá nặng. Mà hình như, tấm lòng hoài nhớ ấy cũng không chỉ có ở mình tôi. Hình như quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa càng được đẩy nhanh, người ta càng khao khát được một lần ngồi bệt dưới bóng tre vào một buổi trưa nồng.

Tiếng vọng là tập thơ nặng tình quê như thế. Nguyễn Thị Phương đã trình làng một tấm lòng quê trước hết ở độ phủ của không gian quê kiểng. Người ta có thể gặp lại trong thơ chị những hình ảnh quen thuộc: dòng sông, cây đa, bến nước, mái đình, một vầng trăng,… Đấy là cuộc trở về với tuổi thơ của những người sinh ra ở các vùng nông thôn trong những thập niên tám mươi của thế kỷ hai mươi trở về trước. Thế nhưng không đơn giản như vậy, đây là cuộc trở về của người Việt với tấm lòng gắn chặt với nơi chôn rau cắt rốn. Chúng ta gặp ở đây không gian làng quê của cổ tích, ca dao, của Đặng Huy Trứ, của Nguyễn Khuyến, của Bàng Bá Lân hay Nguyễn Bính… Nhưng cuộc trở về ấy không chỉ là cuộc lần hồi trở về quá vãng, để ôn lại những kỷ niệm, để ghi dấu một tấm lòng yêu quê, mà hơn hết là để tìm một sự an ủi trong mong muốn tẩy trắng ký ức của những tháng ngày bụi bặm, của một kẻ đã từng “lạc loài trong cõi phiêu diêu” để rồi “Bước chân mệt mỏi cuộc người/ Vịn về lối ấy đầy vơi ân tình”. Tôi nhớ Nguyễn Khuyến có hai câu thơ viết về chùa Đọi:
“Chùa xưa ở lẫn cùng cây đá
Sư cụ nằm chung với khói mây”
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Câu thơ chỉ điểm một chút thôi cảnh chùa, nhưng đã trở thành tuyệt bút miêu tả một vùng quê yên bình và đẹp một vẻ đẹp trong mộng, cổ kính mà trang nhã, u tịch mà thanh thoát, ngời lên cái tĩnh của đạo pháp. Nghĩa là, khi nhắc đến chùa tháp, người ta thường để cho hồn mình lắng lại, để tìm kiếm một an ủi. Nguyễn Thị Phương đương nhiên không phải là Nguyễn Khuyến, không có cái tâm trạng của Nguyễn Khuyến, nhưng đọc những dòng sau đây, người ta cũng có thể hình dung về việc chị cần lắm một chốn yên bình của đạo pháp. Và quê hương của chị, mái chùa nơi quê hương ấy, chính là nơi chị tìm kiếm được niềm an ủi:
“Ta giờ khát một bình minh
Chuông chùa vang tiếng giữa thinh không rồi
Tĩnh tâm vút bóng mây trời
Lắng vào đây giữa rối bời nhân gian”.
(Khát)

Quê hương trong thơ Nguyễn Thị Phương không chỉ là chỗ đi về, không chỉ là nơi để chủ thể trữ tình kiếm tìm những an ủi, những sẻ chia. Quê hương trong thơ chị còn là nơi cất giữ những bí mật của mỗi người. Ai chẳng có một quê hương với những kỷ niệm ấu thơ, với trò bịt mắt bắt dê, đánh khăng đánh đáo, đánh chắt đánh chuyền,… và còn cả những nỗi niềm, những bí mật chỉ mang theo mình, hoặc lơ đãng bỏ quên để rồi một ngày trỗi dậy trong nỗi nhớ, cụ thể hay mơ hồ. Quê hương trong thơ Nguyễn Thị Phương cũng thế. Nhưng, quê hương trong thơ chị còn là nơi cất giấu những bí mật về vẻ đẹp diễm tình thiếu nữ. Đấy là thiếu nữ với nụ cười luôn ở đó, với tuổi trẻ, với giêng hai luôn ở đó – đối lập với phía già nua của tự nhiên, của cơ chế sinh học theo thời gian, bởi những âu lo trong cuộc sống luôn đầy những nỗi buồn và sự tổn thương:
“Em về vớt lại nụ cười
Thuở xa xôi ấy vẫn tươi đến giờ
Sông xưa bến cũ thẫn thờ
Chao nghiêng dòng nước đôi bờ vấn vương.
… Em về níu lại giêng hai
Bâng khuâng vạt nắng cuối ngày vợi xa”.
(Níu lại giêng hai)
Hay:
“Bây giờ trở lại, bồi hồi…
Không còn bên lở bên bồi nhớ thương
Chỉ còn ánh mắt vấn vương
Cái ngày xưa ấy nõn nường trăng non”.
(Sông xưa)
Cuộc trở về của Nguyễn Thị Phương không chỉ thể hiện trong ý tứ, trong hình ảnh, trong chi tiết. Ở đây người ta còn thấy cuộc trở về của xôn xao ngôn từ. Trong tập thơ này, tôi thống kê được 65 chữ “về” chưa kể biến thể của nó, đặc biệt có nhiều bài có đến 7 lần sử dụng. Chúng – những chữ “về” (và biến thể) ấy, xuất hiện chắc chắn do sự thôi thúc của tứ thơ. Đấy là lựa chọn của ý và tình, không phải là tác giả cố ý chọn chúng.
Nét riêng của tấm lòng quê trong Tiếng vọng tình cảm của chủ thể trữ tình hầu hết đều nhẹ nhàng trong trẻo, và đặc biệt rất nhạy cảm với mùa. Nói Tiếng vọng là tập thơ của tình quê hẳn nhiên là đúng, nhưng nếu nó là cuộc trình hiện của mùa hẳn cũng không sai. Mùa xuất hiện nhiều nhất lại là trong những bài viết về quê hương xứ sở, mỗi mùa một tính, nhưng nhìn chung đều êm, lặng và khá khắc khoải. Tác giả đã cố gắng tìm đến miêu tả, thể hiện những hình ảnh có tính đại diện tiêu biểu nhất cho mùa, và chuyển tải một cách chính xác nhất những nỗi niềm, những thông điệp của tâm trạng. Ví dụ mùa thu đến trong thơ Nguyễn Thị Phương luôn gắn với nỗi buồn (điều này đã trở thành một truyền thống do đặc điểm tự nhiên của mùa – thứ truyền thống thật khó để vượt qua). Thu với trăng như một cặp làm nên cái thẩm mỹ đầy nỗi niềm mà ta thường gặp trong thơ cổ, trong Thơ Mới lãng mạn. Nếu khi viết về quê hương, về những kỷ niệm quá vãng, nơi gắn với tuổi thơ, tuổi trẻ, và có lẽ là, gắn với cả số phận của chị, Nguyễn Thị Phương có xu hướng tìm đến những hình ảnh, những chi tiết giản dị, hiện thực, thì khi viết về mùa với những tình cảm lãng mạn, chẳng hạn tình yêu, chẳng hạn những cô đơn “sướt mướt” chị lại tìm đến những hình ảnh, những chi tiết ít nhiều xa lạ với đời sống hiện thực, và ngôn từ được sử dụng cũng ít nhiều dụng công hơn, cầu kỳ hơn, đó là “bẽn lẽn hàng mi nghiêng bóng rợp” (Ngập ngừng thu); là “Nụ cười thấp thoáng tròn vành nón xinh” (Em về):
“Ngập ngừng thu trăng non đầu tháng
Gió tự tình trong khóm lá say
Bẽn lẽn hàng mi nghiêng bóng rợp
Mùa thu vàng níu bước chân ai?
Ngập ngừng thu trang đài nét ngọc
Chút lạnh lùng bóng sớm sương sa
Lãng đãng hồn thu từng nốt nhạc
Rót chiều thánh thót lắng hồn ai!”
(Ngập ngừng thu)
Một thói quen thường thấy trong thơ, nhất là trong thơ đàn bà, là viết nhiều về tình yêu. Tình yêu trong thơ Nguyễn Thị Phương là thứ tình yêu đã qua, mang sắc màu kỷ niệm. Nó bàng bạc trong nỗi nhớ quê, bàng bạc trong nỗi cảm mùa, bàng bạc trong không gian, thời gian và sự vật. Đó là một vầng trăng, một nụ tầm xuân, một ánh vàng hoa cải, một sắc trắng mây trời (Lời ru tầm xuân, Mưa đông, Sông xưa, Cứ ngỡ,…). Và, tình yêu trong thơ chị cũng là thứ tình nhè nhẹ, buồn, nhưng chỉ là những nỗi buồn nhè nhẹ, êm êm, nhưng vời vợi.
Có lẽ bởi lòng quê sâu nặng nên những bài viết với cảm hứng quê hương, quê kiểng vẫn là những bài khá hơn cả trong tập thơ này, và nhất là với thể lục bát. Những bài lục bát quê hương ở đây được viết khá nhuyễn, cấu tứ mạch lạc, kỹ thuật dùng chữ, hiệp vần… đều khá già tay. Ra khỏi lục bát, người đọc có thể thấy tác giả dễ sa vào lối cấu tứ, dụng chữ… của Thơ Mới lãng mạn 1932 – 1945, vả lại thường thất vận. Nhưng điều này cũng chẳng sao, miễn là tác giả cứ nói được điều gì đó của tấm lòng mình, đôi khi cho riêng mình.
Lê Thanh Nga















